Mục lục nội dung
Khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu là bệnh gì?
Theo bác sĩ Nguyễn Thuỳ Ngoan – trưởng khoa khám bệnh Phòng khám Y học Cổ truyền Sài Gòn, giảng viên bộ môn YHCT Đại học Y dược TPHCM cho biết: Khí hư bình thường ở chị em sẽ có màu trắng trong hoặc hơi ngà, dính, không có mùi. Khí hư có vai trò chính là cân bằng độ ẩm môi trường âm đạo, ngăn chặn vi khuẩn có hại xâm nhập vào âm đạo và là chất bôi trơn khi quan hệ tình dục.
Nếu chị em đột nhiên thấy Khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu thì hãy nhanh chóng đi khám tại các cơ sở y tế sớm nhất có thể vì đây là dấu hiệu cảnh báo nhiều bệnh lý nguy hiểm như:
Viêm âm đạo:
Đây là tình trạng viêm nhiễm ở âm đạo do các tác nhân như vi khuẩn, nấm, trùng roi… gây ra. Triệu chứng điển hình của viêm âm đạo là:
- Viêm âm đạo do nấm Candida: Khí hư màu trắng lợn cợn như sữa chua, đặc, khi khô đóng thành mảng, vùng kín ngứa rát, sưng đỏ, tiểu buốt kèm theo triệu chứng đau khi quan hệ, …
- Viêm âm đạo do vi khuẩn: Khí hư ra nhiều, có màu trắng xám, mùi hôi tanh rất khó chịu…
- Viêm âm đạo do trùng roi Trichomonas: Khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu, có bọt, kèm theo triệu chứng tiểu buốt, tiểu rắt, ngứa rát âm đạo, đau khi quan hệ tình dục, …
Khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu do viêm âm đạo gây ảnh hưởng đến sinh hoạthàng ngày và đời sống tình dục của chị em. Đối với phụ nữ mang thai, khi bị viêm âm đạo sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi, dễ gây sảy thai, đẻ non.
Không những thế, bệnh còn có thể gây biến chứng viêm tử cung, viêm vòi trứng, viêm đường tiết niệu, viêm vùng chậu, viêm niêm mạc tử cung, vô sinh – hiếm muộn,…
Viêm lộ tuyến cổ tử cung:
Đây là tình trạng cổ tử cung của nữ giới bị lở loét, viêm nhiễm, mưng mủ do sự tấn công của các loại vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng.
- Triệu chứng điển hình của viêm – viêm lộ tuyến cổ tử cung là khí hư ra nhiều, có màu vàng hoặc xanh nhạt trông giống mủ, đặc hay vón cục như bã đậu. Các biểu hiện đi kèm gồm tiểu khó, đau bụng dưới, đau sau khi quan hệ, đau nhiều trong thời gian hành kinh, chảy máu âm đạo bất thường, rối loạn kinh nguyệt,…
- Viêm cổ tử cung khiên chị em luôn cảm thấy đau đớn khi quan hệ tình dục dẫn đến chất lượng đời sống tình dục bị giảm sút, lâu dần gây lãnh cảm, tan vỡ hạnh phúc gia đình. Đồng thời viêm cổ tử cung còn gây khó khăn cho quá trình thụ thai do khí hư tiết nhiều, cản trở tinh trùng di chuyển, tăng nguy cơ vô sinh – hiếm muộn.
Ngoài ra, vi khuẩn, nấm, vi trùng gây hại có thể xâm nhập ngược dòng gây viêm nội mạc tử cung, viêm lộ tuyến cổ tử cung, viêm phần phụ, viêm vùng chậu… Bệnh nếu không được chữa trị dứt điểm, để tái phát nhiều lần có thể biến chứng thành ung thư cổ tử cung.
Viêm cổ tử cung cũng làm tăng nguy cơ sảy thai, sinh non, dị tật bẩm sinh ở thai nhi.
Viêm nội mạc tử cung
Đây là tình trạng viêm nhiễm xảy ra bên trong buồng tử cung, cũng có nguyên nhân do vi khuẩn, nấm hay ký sinh trùng tương tự như viêm âm đạo và viêm cổ tử cung. Bệnh cũng có thể bị do vi khuẩn ngược dòng khi mắc một trong những bệnh trên.
Triệu chứng:
- Khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu kèm mùi hôi tanh khó chịu.
- Cơ thể mệt mỏi, xanh xao, sốt nhẹ…
- Rối loạn kinh nguyệt, đau bụng dưới, đau rát âm hộ khi quan hệ.
Viêm nội mạc tử cung dẫn đến giảm ham muốn và chất lượng đời sống tình dục, Lây lan sang các bộ phận khác gây viêm tắc vòi trứng… ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Tăng nguy cơ sảy thai, sinh non.
Ung thư cổ tử cung
Đây là sự hình thành các ổ ung thư ác tính trong mô cổ tử cung thường gặp ở nữ giới. Bệnh có tỷ lệ gây tử vong ở nữ giới đứng hàng thứ hai sau ung thư vú.
- Biểu hiện của ung thư cổ tử cung là khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu, đau rát và chảy máu âm đạo bất thường sau khi quan hệ hay giữa các kỳ kinh, đau bụng dưới, đau lưng, đau xương chậu. Cơ thể mệt mỏi, bí tiểu, tiểu nhiều, sụt cân, thiếu máu,…
- Điều đáng sợ hơn cả là bệnh ung thư cổ tử cung thường không có nhiều biểu hiện rõ ràng ở những giai đoạn đầu. Khi xuất hiện khí hư ra màu xanh nhạt, đặc, vón cục như bã đậu thì bệnh đã ở giai đoạn nặng, lúc này việc hỗ trợ điều trị trở nên khó khăn, tốn kém nhiều chi phí và có nguy cơ cao gặp phải những biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng người bệnh.